Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

HOÀI ANH : ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐỒNG NAI TRONG THƠ TRẦN NGỌC TUẤN






ĐẤT VÀ NGƯỜI ĐỒNG NAI TRONG THƠ TRẦN NGỌC TUẤN

HOÀI ANH


Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong đổ lộn nước sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây hãy về.
Đó là lời nói chơi cho vui của cô nàng Đồng Nai nói với các chàng trai miền Bắc, miền Trung vào khái phá miền Nam, chứ nếu đã “bén rễ xanh cây “ thì lúc ấy dù có muồn về, nàng cũng sẽ nói “Mình về ta chẳng cho về. Ta níu vạt áo ta đề bài thơ”.
Từ thuở cha ông mang gươm đi mở cõi đến nay đã hơn ba trăm năm mà chàng trai Trần Ngọc Tuấn vẫn còn bị cô nàng Đồng Nai níu áo lại, đến nỗi phải thốt lên :
Nhà Bè nước chảy chia hai
Thân này chọn hướng Đồng Nai xuôi thuyền
Cũng vì hai chữ nhân duyên
Xa cha biệt mẹ buông thuyền theo em.
Đồng Nai trạm nghỉ chân đầu tiên trên con đường thiên lý từ Bắc vào Nam, đi đường bộ, ai ai cũng phải đạp chân trước tiên lên mảnh đất địa đầu này. Qua những ngày tháng trèo non lội suối, vượt Trường Sơn một cách vất vả, rời vùng ác hiểm với “cọp Khánh Hòa, ma Bình Thuận“ liền gặp Đồng Nai. Do đó người ta dễ có ấn tượng tốt đẹp về vùng đất khi mới đặt chân tới :
Trên hòn Long Ẩn dưới truông voi
Phong cảnh Đồng Nai thú mặn mòi

Theo Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí, ông cha ta khai thác miền Gia Định, “ bắt đầu từ Đồng Nai, cho nên người đời trước có ý nói một cách toàn bộ như cử cái gốc thì tóm được cái ngọn, xách chỗ đầu thì kéo được cả phần đuôi”.
Trần Ngọc Tuấn tưởng nhớ tiền nhân đã khai phá đất này :
Người xưa cuốc gió bừa mây
Cho con cháu gặt bông sây mùa vàng
Người xưa phát cỏ khẩn hoang
Đào kinh khơi tắc dựng làng lập quê
Người xưa gươm khắc lời thề
Tình son nghĩa sắt đề huề anh em
Đồng Nai con nước êm đềm
Còn nghe vó ngựa gõ thềm sông xanh.
Người thiết lập bộ máy chính quyền đầu tiên trên đất này là Lễ thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh . Trong bài Dưới chân đền thờ Nguyễn Hữu Cảnh, Trần Ngọc Tuấn viết :
Bàn chân vừa chạm chân đền
Bỗng nghe giông gió sấm rền đâu đây
Bàn tay vừa khỏi ngọn cây
Đã nghe mặt đất níu mây gọi về
.
Giông gió sấm rền gợi lên công giữ đất của Nguyễn Hữu Cảnh cho tới phút cuối cùng ông qua đời trong một cơn giông ở cù lao Ông Chưởng. Mặt đất níu mây gợi lên công mở đất của Nguyễn Hữu Cảnh như cơn mưa ngọt tưới cho đồng ruộng xanh tươi.
Là cửa ngõ đi vào Nam, Biên Hòa từ xưa vẫn nổi tiếng là nơi “núi đẹp sông trong, phong tục thuần hậu, công việc giản dị, kẻ sĩ chọn thi thư, nhân dân siêng cày cấy, dệt cửi” (Trịnh Hoài Đức ). Biên Hòa còn có một nền văn hóa lâu đời. Trần Ngọc Tuấn viết về Đàn đá Bình Đa:
Lặng im một góc bảo tàng
Bình Đa một thoáng giữa ngàn cổ xưa
Ngỡ đàn tàn nhịp nắng mưa
Chợt trong thớ đá nhặt thưa luân hồi.
Kiếp luân hồi ở đây là kiếp người luân hồi thành tượng đá trong tác phẩm của nghệ nhân tạc tượng đá, để tồn tại đời đời kiếp kiếp. Trần Ngọc Tuấn viết bài Người tạc tượng đá ở Bửu Long :
Người chân đất tạc rồng bay
Một đời lặng lẽ nắng ngày sương đêm
Mai hóa đất dưới cỏ mềm
Hồn còn cậy đá gánh thêm nợ trần.
Đồng Nai còn nổi tiếng về nghệ thuật gốm. Trần Ngọc Tuấn viết :
Sinh ra từ dòng sông trăm họ
Uống nước sông này gửi lại hoa văn
Hào khí luyện lò nung nghìn độ
Gốm ngọc ngời chảy loáng men sông.

Men gốm ánh lên màu xanh ngọc của dòng sông Đồng Nai do kết tinh từ ngọn lửa hào khí Đồng Nai, sự hài hòa tuyệt đẹp giữa Đất và Người. Đất và Người Đồng Nai từng được miêu tả trong những bài thơ Trịnh Hoài Đức : Hoa Phong cổ lũy (Lũy cổ Hoa Phong), Ngư Tân sơn thị (Phiên chợ núi ở Bến Cá), Tân Triều đãi độ (Tân Triều chờ đò), Lộc động tiều ca (Bài hát của người tiều phu Hố Nai), Chu thổ sừ vân (Đất đỏ bừa trong mây), Tân Kinh thần mục (Sớm chăn trâu ở Tân Kinh), Quất xã ráo ti (Làng quít ươm tơ) … Trần Ngọc Tuấn đã mượn ý thơ trong bài Tân Triều đãi độ của Trịnh Hoài Đức để viết bài thơ Qua bến Tân Triều :
Tân Triều thuyền lẻ nằm ngang
Mặt trời gác bóng mênh mang nước trào
Ngựa dầm nước ngút khí hào
Khách nhìn sông bỗng nao nao tấc lòng
Ngậm hoa cá lượn theo dòng
Lùm cây quạ mớm quả rừng cho con
Điếm thôn mười tiếng gõ dồn
Vén mây rèm trúc song luồn ánh trăng

Lời xưa gió bạt sóng ngàn
Ơ kìa cò trắng bàn hoàn tình sông.
Khi giặc Pháp bắt đầu xâm lược nước ta, Đồng Nai cũng là nơi chịu đau thương tang tóc đầu tiên : Bến Nghé của tiền tan bọt nước, Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây (Nguyễn Đình Chiểu ) .Đồng Nai cũng là nơi đầu tiên theo nghĩa quân Trương Định đánh Pháp : Đồng Nai chợ Mỹ lo nhiều phía – Bến Nghé Sài Gòn trảo mấy đông (Điếu Trương Định – Nguyễn Đình Chiểu)
Giặc Tây đến cửa Cần Giờ, Em đừng thương nhớ đợi chờ uổng công. Lớp lớp người Đồng Nai đã đứng lên đánh Pháp. Với ý nghĩ và tâm nguyện cháy bỏng : Bao giờ cạn nước Đồng Nai, Nát chùa Thiên Mụ mới phai lời nguyền. Hào khí Đồng Nai bừng bừng qua hai mùa kháng chiến kết tụ trong hình ảnh người con yêu của đất Đồng Nai : vị tướng – nhà thơ Huỳnh Văn Nghệ, trong bài thơ Trở lại rừng xưa, Trần Ngọc Tuấn viết :
Thác còn lừng lững suối còn xanh
Chim tự muôn phương tụ đất lành
Hoa cũng quên mình phơi phới sắc
Bướm cũng ân tình phút tái sanh

Cây lại xanh rừng sau nắng mưa
Vầng trăng gác núi chiến khu xưa
Thi nhân ngang súng trên yên ngựa
Lớp lớp người đi lốc xoáy mùa
Tinh hoa văn hóa văn nghệ Đồng Nai kết tụ trong từng trang viết của từng thế hệ nhà văn từ Lý Văn Sâm, Hoàng Văn Bổn đến Khôi Vũ, Nguyễn Đức Thọ, Đàm Chu Văn…Trong bài Người về, kính tặng nhà văn Hoàng Văn Bổn, Trần Ngọc Tuấn xâu chuỗi tên các tác phẩm của Hoàng Văn Bổn thành thơ, ghi lại cái tình của nhà văn với Đất và Người Đồng Nai :
Ngôi sao nhớ ai đêm giã biệt
Nước mắt rơi thấm mảnh đất này
Miền đất ven sông
ờ bến cũ
Sóng bạc đầu chào tóc trắng bay

Sau ngày thống nhất đất nước, Đồng Nai phấn khởi bước vào công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong bài Tứ tuyệt bên thác Trị An, Trần Ngọc Tuấn so sánh lao động tạo dòng thủy điện với lao động sáng tác thơ ;
Những bọt nước lúng liếng
Những con chữ phạc phờ
Thác quặn mình thành điện
Người vật vã thành thơ.
Những khu rừng chiến khu xưa giờ dựng lên lâm trường mới. Trong bài Mã Đà thương nhớ, Trần Ngọc Tuấn viết :
Người về với chiến khu xưa
Ngày đêm xe sợi nắng mưa lâm trường
Rừng xanh một sắc mơ màng
Dáng người lẫn giữa muôn ngàn bóng xanh

Cây mười năm, cây trăm năm
Cây đang nhú lộc, cây lành vết xưa
Vì người quên sớm quên trưa
Cây xanh như buổi cành thưa ngỡ ngàng

Không bom đạn, thuốc khai quang
Giận còn lâm tặc hung hoang phá rừng
Trăng soi mái ấm lâm trường
Kìa ai thức trắng để nhường giấc xanh
Không còn bom đạn, thuốc khai quang, nhưng vẫn còn cuộc “ chiến tranh không tiếng súng “ với những thói hư tật xấu, những tiêu cực xã hội, đòi hỏi mỗi con người phải tự nâng cao ý thức làm chủ xã hội. Bên rừng cao su Xuân Lộc, Trần Ngọc Tuấn nảy ra ý thơ – triết lý :
Mùa đông
Lá rụng
Người giống thế
Mà đừng phải thế !

Rừng cao su
Vắt kiệt máu mình
Rồi lặng lẽ…
Người giống thế
Mà đừng phải thế !
“Nhân linh ư vạn vật” (người linh hơn vạn vật) như vậy mới làm tròn sự nghiệp chinh phục thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên, bắt thiên nhiên phục vụ cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, do đó không vô tri như vạn vật, nhưng lại đòi hỏi phải có tâm hồn gần với thiên nhiên. Trong bài Về Tân Uyên, Trần Ngọc Tuấn viết :
Bạn hiền như thuở Tân Uyên
Thong dong sống giữa an nhiên phố phường

Phải có cái an nhiên ấy mới đứng vững được giữa những cơn lũ do thiên nhiên khắc nghiệt mang đến. Trong bài Mùa lũ, Trần Ngọc Tuấn viết:
Rừng giận ùn ùn cơn lũ quét
Người dắt dìu người qua nông sâu
Đất giận trút hờn cơn địa chấn
Người xót xa người ngắm bể dâu.
Phải có cái an nhiên ấy mới đứng vững được giữa những cơn bão không tên của thời kinh tế thị trường : Xưa đã quen những chuyển mùa không báo trước, giờ tập dần sống với bão không tên (bão không tên) .
An nhiên không có nghĩa là thụ động, mà là an nhiên đương đầu với cái ác. Trong bài Người quét rác bên sông, Trần Ngọc Tuấn viết :
Dọn quét quanh năm chưa vãn rác
Nắng mưa trăn trở với con đường
Ai có thấy mình là kẻ ác
Vứt phủ phàng rát mặt dòng sông
.
Cái trăn trở ấy tạo nên đặc sắc của thơ Trần Ngọc Tuấn từ trước đến nay. Trong những sáng tác gần đây, Trần Ngọc Tuấn đã nhập thế hơn những tập thơ trướccủa anh. Phải chăng anh đã có những đối tượng cụ thể để mà thương yêu : từ mẹ, vợ, con, bạn bè, đồng nghiệp, đồng bào, trên một tọa độ cụ thể: mảnh đất Đồng Nai, nên thơ anh thực hơn, đằm thắm hơn, mênh mang hơn, chứa đựng tình người nhiều hơn. Trong bài Một chiều Tân Hiệp, anh viết: Chợ xuân hoa ngập nắng tràn – Bên kia cầu Đúc người đang tìm người. Không phải sáu nhân vật đi tìm tác giả như kịch bản của Pirandello, mà là tác giả đi tìm độc giả, những tâm hồn đồng điệu. Trong bài Đêm trăng bóng rỗi, Địa – Nàng, anh viết : Dâng em gạo trắng Đồng Nai – Sầu riêng Phú Hội, bưởi xoài chợ Dinh – Dăm câu bóng rỗi xập xình – Cầu Gành mấy nhịp kiều tình bấy nhiêu. Hy vọng rằng những câu thơ viết về Đất và Người Đồng Nai của Trần Ngọc Tuấn bắt được nhịp kiều tình của tác giả đến với bạn đọc gần xa.

Sài Gòn, 2002

HOÀI ANH

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2011

HOÀI ANH : ĐỌC" CON MẮT DÃ QUỲ " CỦA TRẦN NGỌC TUẤN






ĐỌC “ CON MẮT DÃ QUỲ “ CỦA TRẦN NGỌC TUẤN

HOÀI ANH

Trần Ngọc Tuấn có lần nói với tôi, chàng muốn làm một hành giả đi tìm đạo, nhưng chỉ “chay lòng” chứ không chay miệng, nghĩa là trên đường không chân đất, khất thực nhưng mang theo rượu ngon, vui với “trăng trong gió mát”, lấy không ai cấm, dùng hoài không hết, cầu “ngộ” ra cái lẽ ở đời. Tôi nói với chàng: Nếu làm được như vậy thì sẽ có được cái văn chương “mây bay nước chảy” của Tô Đông Pha ngày xưa, như “ nguồn suối vạn hộc, không chọn đất mà vọt ra, ở đất bằng thao thao chảy xiết, dầu một ngày ngàn dặm cũng không khó, kịp khi gặp đá núi khuất khúc, tùy vật phú hình mà không thể biết. Cái có thể biết là thường đi ở chỗ nên đi, thường dừng ở chỗ nên dừng! “ .Muốn như vậy phải giữ cho tâm hư và tĩnh, bởi “tĩnh nên hiểu mọi động, không nên thâu muôn cảnh” tức là khi đang làm thơ, không nên mong trước tìm ra một cái “đạo” rồi đem nhét nó vào thơ mà là “đạo” ngầm chứa trong sáng tác tự do tự động như nhịp điệu tự nhiên. Đó là cảnh giới tôi đang mong tới mà chưa được.

Chàng nghe tôi trở về tiếp tục làm thơ, và dường như cũng “diệu ngộ “ ít nhiều. Ít lâu sau, chàng đưa tôi xem một số bài thơ, tôi thấy có những câu mang ý hư và tĩnh:

Lang thang trẻ thơ
Đầu đường cuối chợ
Tôi hóa mắt nhìn
Bạn nhận ra không

Lời ai chạm tiếng chim ca
Rượu ai rưới xuống chan hòa hư không

Bướm trinh chao cánh vườn thiền
Tiếng chim tra trả thức miền nguyên sinh

Một đời không đủ rong chơi
Tự mình hóa cỏ luân hồi nỗi xanh.

Lại có lần Trần Ngọc Tuấn nói với tôi chàng muốn làm một thi sĩ hát rong, nhưng không hát dưới chân lâu đài của một công nương, mà như một Rimbaud “ rắc thơ giữa lối ta đi, Nơi quán Đại Hùng Tinh ta nghỉ trọ, những vì sao khẽ sột soạt trên kia “.

Tôi nói với chàng : Rimbaud sau hóa thành một “con tàu say “” giữa đêm xanh lá cây mơ tới những ngàn tuyết rực rỡ, như những chiếc hôn chậm chạp dâng lên đôi mắt đại dương, mơ đến cuộc lưu thông của những dòng nhựa dị thường …”, rồi bỏ thơ chết trẻ.

Hãy học theo Emile Verhaeren biết dạo chơi lành mạnh : “ Tôi nhìn thấy lần đầu cơn gió thắm, Trong biển lá cây lấp lóa ngời ngời, Hồn tôi mang tình người không có tuổi, Đều trẻ trung mới mẻ dưới mặt trời. Tôi yêu mắt, yêu tay, yêu thân thể,Yêu tóc vàng nâu rậm rạp bềnh bồng,Tôi muốn uống không gian vào đôi phổi, Để bơm cho sức lực được căng phồng “. Đó là thái độ sống mà tôi mong có được.

Chàng nghe tôi trở về tiếp tục làm thơ, và dường như được tiếp thêm sức sống từ thiên nhiên. Ít lâu sau chàng đưa tôi xem một số bài thơ, tôi thấy có những bài nạp năng lượng mặt trời :

Vẫn biết cõi người là cõi tạm
Sao yêu đến cháy ruột gan này

Lặng lẽ đêm ngày gieo hạt
Mặt đất chợt xô theo luống ý cày

Đêm cuồng
Vó dọc
Bờm ngang
Đêm
Chữ thắp lửa
Lóe trang
Bập bùng

Câu chuyện của chúng tôi chỉ đơn giản có thế. Còn ngoại giả tất cả là hư văn. Cái thực còn trông vào tập thơ “ con mắt dã quỳ “ như ly nước trong mời bạn uống đang ở trước đôi mắt xanh của bạn đọc yêu quý.

Sài Gòn, 10 – 10 – 1999

HOÀI ANH


* Tập thơ CON MẮT DÃ QUỲ của TRẦN NGỌC TUẤN , NXB HỘI NHÀ VĂN , NĂM 2000

Thứ Hai, 25 tháng 7, 2011

HOÀI ANH : CHÂN CHIM HÓA THẠCH (ĐỌC TẬP THƠ CHÂN CHIM HÓA THẠCH CỦA TRẦN NGỌC TUẤN )






CHÂN CHIM HÓA THẠCH

(Đọc tập thơ CHÂN CHIM HÓA THẠCH của Trần Ngọc Tuấn )

HOÀI ANH

Các nhà văn Aleho Carpentier, Gabriel Garcia Marquez nhận thấy ở Châu Mỹ La Tinh, bên cạnh những địa tầng địa chất còn có những lớp địa tầng văn hóa chìm sâu trong lòng đất, kết tinh lại trong những huyền thoại, cổ tích, truyền kỳ, thơ ca dân gian… thấm đậm ký ức cộng đồng trải qua hàng ngàn năm vẫn sống cùng con người hôm nay, cái đó đã tạo nên hiện thực huyền ảo của Châu Mỹ La Tinh. Tôi nghĩ ở Phương Đông và ở Việt Nam cũng có cái hiện thực huyền ảo như vậy, như huyền thoại Gióng.
…Huyền thoại ấy với tất cả các chi tiết mang tính biểu tượng trong hệ thống cấu trúc của nó, đã thể hiện cùng một lúc cả chiều cao, chiều rộng, chiều sâu của hiện thực chống ngoại xâm của đất nước ta, một hiện thực phong phú, phức tạp và dữ dội. Hiện thực ấy đi vào lòng cuộc sống vào máu thịt làm nên hội sống của con người Việt Nam, với ý thức cộng đồng, thái độ ứng xử, hình thành tính cách tâm lý, quan niệm triết lý, đạo đức, qua đó góp phần đào luyện nhân cách tạo nên nếp sống của con người Việt Nam.
Các nhà thơ lớn của dân tộc sở dĩ vĩ đại ở chỗ trong tác phẩm của họ đã lưu giữ được ký ức cộng đồng hội nhập được vào ý thức cộng đồng nhiều hơn ai hết vì cá tính, lối sống của họ thể hiện được những nét bản chất nhất, đặc trưng nhất của tính cách, tâm hồn dân tộc; chính vì thế mà trong hoàn cảnh thời cổ thiếu phương tiện in ấn xuất bản phần lớn chỉ lưu hành bằng hình thức truyền miệng, thơ văn của họ được nhiều thế hệ người Việt Nam truyền tụng, và đến lượt thơ văn của họ lại thành bia miệng sống mãi nghìn thu, đi vào kho tàng ký ức cộng đồng, ý thức cộng đồng, vừa trở thành tài sản tinh thần của dân tộc vừa tạo nên cái hiện thực huyền ảo của đất nước, nằm trong những vỉa sâu của địa tầng văn hóa Việt Nam, và cái cốt cách lãng mạn tài – tình của con người - ở đời Việt Nam.
Tôi hiểu Trần Ngọc Tuấn khi viết những bài thơ về Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Công Trứ, Cao bá Quát, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà…là muốn khơi sâu vào những lớp địa tầng văn hóa, tìm đến những giá trị tinh thần không hề mục nát với thời gian mà đã hóa thạch, mong để kết tinh những gì là tiêu biểu nhất của tính cách, tâm hồn dân tộc và bản lĩnh cá tính của con người Việt Nam, tâm hồn như sao Khuê vằng vặc của Nguyễn Trãi, tình cảm nhân đạo nhuần thấm đến cả bộ xương khô của Nguyễn Du, cái bản lĩnh một trèo ba bảy cũng trèo của Hồ Xuân Hương, cái khí phách làm cây thông đứng giữa trời mà reo của Nguyễn Công Trứ, cái hào khí chọc trời khuấy nước của Cao Bá Quát… cho đến tâm sự đau đời thương nước của Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Đà… khi đất nước còn đêm sao đêm vẫn tối mò mò, đều là những viên ngọc gia bảo mà chúng ta cần gìn giữ trân trọng. Xét cho cùng thì ngọc cũng là một thứ thạch (đá) mà thôi, chỉ có khác là sự hóa thạch này kết tinh được những gì sáng đẹp nhất, trong sạch nhất, bền vững nhất. Nhưng giá trị của viên ngọc không phải lúc nào bằng mắt thường cũng có thể nhận ra ngay mà phải trải qua sự sàng lọc của thời gian mới phát hiện vẻ bên trong của viên ngọc . Đó là trường hợp những danh nhân như Ngô Thì Nhậm chẳng hạn.
Không phải cái gì có khối lượng, trọng lượng lớn mới là đẹp, mà cái đẹp có khi rất tế vi, như chân chim hóa thạch, đòi hỏi phải có sự tinh tế, nhạy bén mới cảm nhận được.
Tìm ra cái đẹp qua chiều sâu của văn hóa dân tộc không chỉ ngồi chiêm ngưỡng, ca tụng, mà cái chính là phải noi gương người xưa đưa những cái gì tinh túy nhất của tính cách tâm hồn Việt Nam vào đời sống hàng ngày, vào phép ứng xử, vào nếp tư duy, vào cách rung cảm, vào quan niệm sống, vào thái độ nhập thế và xuất thế, vào cách hưởng thụ lạc thú vật chất và tinh thần, vào việc rèn luyện nghị lực và bản lĩnh…
Tôi biết sau khi đã nêu ra một số định đề về bài học của người xưa, Trần Ngọc Tuấn thử làm một số bài tập, ứng dụng những bài học ấy vào cách sống, cách cảm, cách nghĩ của bản thân mình, ướm mình vào cái thước đo của chân lý nghìn đời.
Thân chăm chỉ bởi biết mình mang nợ
Quả người xưa ăn lậm quá nhiều

Chăm chỉ không có nghĩa là cứ cắm đầu làm nhọc hình hài, làm mệt tâm trí, mà nói cho cùng sống cũng là một cuộc chơi, một cuộc chơi điệu nghệ, đạt tới một nghệ thuật sống, không bon chen, không nhắm lỗ lời. Trước hết là phải trực nhận được sự mong manh của kiếp người lấy thân cỏ dại đo hình càn khôn, sự tàn phá của thời gian chuyến xe rác chở theo hoa bất tử để từ đó mà có một thái độ đầy trách nhiệm, đầy thương yêu đối với cuộc sống hiện hữu phạc phờ chạy gạo từng lon, nuôi thơ, nuôi vợ, nuôi con, nuôi mình, lời thơ đậm quá chữ tình, nên thân xác tướp xơ hình cỏ lau. Đồng thời đạt tới thế quân bình trong tâm trí, để sống một cách ung dung, thích thảng Nhà ta ở cuối chân trời, Khát thời có rượu, đói thời có thơ,Trăng qua khi tỏ khi mờ, Lỏng then bạn quý,khép hờ yêu ma, và cuối cùng ra đi một cách bình tĩnh thản nhiên về cõi không ghen không hờn.
Vẫn biết rằng nói thì dễ làm được mới là khó, tuy vậy chúng ta cũng không nên bỏ qua thái độ dũng cảm, thành thật của Trần Ngọc Tuấn khi nghiêm khắc soát xét lại hành trang của mình, vứt bỏ những gì dư thừa vướng bận, để nhẹ nhàng đi tiếp những chặng đường mới, nơi thơ với cuộc đời là một .


Sài Gòn, 1998

HOÀI ANH

Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2011

HOÀI ANH : GIỮ TÂM THANH BẠCH GIỮA MIỀN PHÙ HOA (ĐỌC TẬP THƠ GIỮA CỎ CỦA TRẦN NGỌC TUẤN )






GIỮ TÂM THANH BẠCH GIỮA MIỀN PHÙ HOA

( Đọc tập thơ GIỮA CỎ của Trần Ngọc Tuấn )

HOÀI ANH

Có những bức tranh xóa nhòa đường nét để chỉ còn hòa sắc, một chút trắng, hồng điểm trên một nền vàng dào dạt.
Có những bản nhạc xóa nhòa cung bậc để chỉ còn hòa âm, tiếng gió lang thang trên đồng cỏ quyện với tiếng suối róc rách triền miên.
Có những bài thơ phiêu hốt, xóa nhòa biên giới không gian thời gian, nhà thơ ra đi với một tấm lòng trinh nguyên, mong tìm đến đích uyên nguyên, dọc đường tung tẩy rong chơi trong cõi thiên nhiên, cõi nhân tình, cõi suy tưởng, vốc từng nắm chữ ném vào cuộc chơi. Câu thơ muốn có cái thâm u của một làn hương, thẳng mạnh như một mũi tên, ngắn đọng như một thông điệp, màu nhiệm như một lời khải thị, để từ trong dồn nén tạo thành một lực, chứa đựng trong nó sức mạnh và minh trí của buổi nguyên khai.
Tôi biết Trần Ngọc Tuấn có ý đi vào con đường thơ phiêu bồng, con đường vắng vẻ đến rợn ngợp, của những lòng nhẹ không đi tìm cái bất chợt để mà cảm, của những hồn mênh mang đi tìm cái nhỏ yếu để mà yêu : Ta sa mạc trắng, em hồng nét hoa, mong vớt một mùi hương hoa mơ thơm suốt chiều hư tưởng, một chút an ủi từ nhánh cỏ mốt mai tình có xa rời, bới tìm trong cỏ một thời, thưa em !, một chút ngơ ngẩn trước kỳ công Tạo hóa vẹt gót giày nẻo đường cát gió, trước Hạ Long hồn xanh dậy ngu ngơ, một chút chạnh lòng trước suối Giải oan bao người đến bấy trái ngang, tôi xin làm suối giải oan cho mình. Trân trọng từng cảm giác trước không gian Gió ơi gió… nhẹ, kẻo làm trăng rơi, đồng thời cảm xúc trước sự biến đổi của thời gian dòng sông hòa nhịp biển khơi, nên lời khoảnh khắc là lời trăm năm.
Thèm cái phong thái của một thiền nhân, ai tất bật với thăng trầm xuôi ngược, Người ung dung dõi mắt phía chân trời, nhưng vẫn nặng lòng đời em phục sinh tiếng khóc, anh hoàn hồn trước mặt Chúa không ngôi. Có những phút nhớ về Mẹ dáng còng của mẹ, dấu hỏi đời con, cát bụi dặm trường, những phút nghĩ về đứa con đối diện trang thơ, tạ lỗi với con mình, chia sẻ tình cảm với bạn bè chắt chiu được ít tiếng cười, san san sẻ sẻ cho người đồng tâm.
Tôi thích những câu thơ dung dị thích thảng vừa phảng phất ca dao vừa mang chất “ Tiêu dao du “ của Trang Tử trong Nam hoa kinh :
Rỡn chơi một kiếp đi rong
Tóe tung bọt nước giữa dòng thuyền trôi
Xin em rỡn một lần thôi
Mai về trên ấy đôi môi khỏi buồn
.
Nhưng khác với Trang Tử mộng thấy mình hóa bướm, Trần Ngọc Tuấn viết :
Có những giấc mơ hóa bướm
Tôi chỉ mong là cỏ dưới chân đèo

Là ngọn cỏ bình thường trên mặt đất cho những giấc mơ có cánh đậu vào. Không gì yếu đuối bằng ngọn cỏ, nhưng cũng không gì kiên cường bằng ngọn cỏ. Tôi nhớ đến câu thơ Walt Whitman: “Tôi nguyện tái sinh trong bùn đất và ngọn cỏ quê hương. Bạn muốn tìm tôi, hãy tìm dưới đế giày của bạn”.
Thái độ bám chắc vào lòng đất, lòng đời ấy là một phép vệ sinh tinh thần, giữ cho tâm thanh bạch giữa miền phù hoa, cái đôn hậu ấy cũng giữ cho tâm hồn khỏi bị cuốn theo cơn lốc của thói khinh bạc, phiêu bồng mà không phiêu lưu, luyện lòng mình như đất ven bờ sông quê, qua lửa lò nung, kết tinh thành gốm ngọc ngời chảy loáng men sông.
Tôi nhớ câu thơ Lưu Trọng Lư: “Ta thương cỏ, ngùi thương phận cỏ, Nguyện ngày mai làm gió bên đường “, ở đây Trần Ngọc Tuấn lại có một thoáng se sắt trước một đêm văn nghệ tan vì bom đạn chiến tranh :
Câu quan họ liền anh liền chị…
Vọng cổ sáu câu chưa kịp xuống xề…
Sàn diễn mưa bom. Tình ca pháo dập
Giờ cỏ xanh rờn, lời xưa gió se
.
Những câu thơ trong cái ung dung thanh thản lại khiến cho người ta se lòng cũng giống như vậy chăng ?


Sài Gòn, 1996

HOÀI ANH

Thứ Năm, 21 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : LÝ VĂN HIỀN - MỘT ÁNH TRĂNG CÔI






LÝ VĂN HIỀN – MỘT ÁNH TRĂNG CÔI


Ánh trăng côi sáng khoảng trời áo trắng, thuở : guốc gỗ trưa hè khe khẽ nhịp – ta nghe khua động xoáy trong hồn – ngày xưa em cũng thường mang guốc – đường nhựa tan trường chân sáo non. Làm sao mà quên được thuở tình học trò khi qua cổng trường con gái, màu vôi vàng còn đấylồng son nào sập bẫy – để em thành xa xăm

Ánh trăng côi sáng khoảng trời Ratanakiri trong mùa khô hành quân : vốc gạo sấy cứ nằm trong miệng – nước bọt quánh như hồ nuốt mãi không trôi; làm sao mà quên được : Đồng đội tôi nằm ven rừng khộp rừng le – mắt mở trừng trừng mơ về dòng sông quê nhà xa lắc . Làm sao mà quên được : chợ sớm chợ chiều em có qua sông – ai đợi em vẫy cro-ma chào về bờ bắc – bao sóng vỗ dưới gầm phà Xrê-pôc – lỗi nhịp tim nào em gởi cho tôi.

Ánh trăng côi sáng khoảng trời quê kiểng, nơi ấy có tiếng xe ngựa già lọc cọc ,có vạt áo trắng trinh hồn nhiên thiếu nữ, có mái ngói âm dương rêu phủ, có luỹ tre làng – khắc khoải đỏ từng ngọn lá, có những đám giỗ trùng đụp chằng mụn vá – miếu âm hồn lá cháo trắng tầm mưa…

Ánh trăng côi sáng khoảng trời tình nghĩa, nơi ấy có Lý phu nhân hiền thục : Em-tiểu thư con nhà khuê các – yêu ta xẻ nửa gánh thân trần…

Giữa muôn ngàn tinh tú, thi sĩ chỉ dám nhận mình là một ánh trăng côi, một ánh trăng côi hiền lành âm thầm dịu sáng…


TRẦN NGỌC TUẤN



*Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Lý Văn Hiền

Thứ Tư, 20 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : VŨ HỮU ĐỊNH - CÒN MỘT CHÚT GÌ ĐỂ NHỚ, ĐỂ QUÊN...




Vũ Hữu Định- còn một chút gì để nhớ , để quên



Trần Ngọc Tuấn

Thi sĩ có những ngày long đong : trưa ngủ đậu , chiều đi , đêm đợi – mai lang thang mốt biết về đâu ? Trong những ngày thui thủi , những ngày vất vưởng ấy , thi sĩ chợt nhận ra :trong đám đông anh lại càng cô độc – bởi một nơi đâu cũng ăn tạm ngủ nhờ – sợ cả lời chia vui thành thật – bạn bè thì đông sao anh vẫn bơ vơ … Trên bước đường luân lạc ấy , đôi khi thi sĩ : đứng sững bên bờ đau hồn cỏ – con bướm giang hồ lả cánh bay rơi



Mệt mỏi ,rã rời nhưng không thể dừng chân bởi mấy năm không đi trời đất nhỏ dần – ôi tiếng còi tàu như một nhát gươm – rướm máu lòng khao khát … Thi sĩ lên đường để thoả mãn cơn khát : thèm đi , thèm thấy , thèm nghe , thèm học ở cuộc đời nầy ; cho dù : đời cứ quay tròn , ta chóng mặt – ta cứ phải nhìn những kẻ đu dây – anh hùng đổi áo theo màn xiếc – chữ nghĩa văn chương đã dạn dày …

Để tồn tại , thi sĩ phải tự nhủ : con chim còn biết tập quen với lồng – con cá còn tập quen với chậucon người cũng phải tập long đong , và hơn thế : ôi vết chém đã qua thời đau nhức – đâm da non để thành sẹo muôn đời – anh thở đều để sống em ơi … Thi sĩ phải sống để mà tạ lỗi với mẹ buồn ta tóc trắng lưng còng ; để mà tạ lỗi với em , người vợ hiền thục nhu mỳ vì thi sĩ mà một đời lận đận : anh biết nói gì khi em long lanh – hai hàng lệ thương con ngày đói – anh đã hiểu dầu em không nói – em khóc tự nhiên như lúc em cười ; để tạ lỗi với tất cả những ai mà thi sĩ một lần phiền luỵ …

Thi sĩ đã hát khúc hát đời lỡ vận – hát âm u trong đêm tối một mình và tự nhận anh là một gã giang hồ tới – lòng hoang như con lộ không đèn – ngồi với lòng sầu ly rượu cạn – sao mới vài ly mà đã say ? Thi sĩ đã có một đêm say cuối cùng như thế để rồi vĩnh biệt , nhưng may còn có em … để còn có thơ ; may còn có thơ để hình ảnh thi sĩ còn thấp thoáng trên cuộc đời nầy và còn một chút gì để nhớ , để quên

Ghi chú : chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Vũ Hữu Định
Trần Ngọc Tuấn

Thứ Ba, 19 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : NGUYỄN XUÂN THÂM - THẮP KHUYA GỌI TRẦM






NGUYỄN XUÂN THÂM – THẮP KHUYA GỌI TRẦM


Trên con đường run rẩy thơ, với bàn chân bé nhỏ mà ghê gớm, với trái tim dầu dãi như là cỏ… Thi sĩ lang thang mai thượng du nay đang biển mù để tìm câu thơ trời cho

Câu thơ trời cho đôi khi đẹp như một bức tranh : nắng mới nhà em nắng mới non – hoa câu như nắng rụng quanh vườn… nhưng còn gì ngậm ngùi hơn khi vườn nhà mẹ mất không còn nữa – anh thiếu quê hương nơi cố hương…

Câu thơ trời cho đôi khi mang hình vết son trong một chiều Paris huyền ảo : Nếu không có cuộc chia xa – em ơi chiều ấy chỉ là chiều thôi – ngô đồng từng lá cứ rơi – sông Seine cứ chảy dưới trời, em đi…

Câu thơ trời cho đôi khi buồn như đêm Huambo – Angola một thời khẹt nồng thuốc súng : hoang vu rừng trước kéo về - câu ca bộ lạc tái tê cả hồn – chiến tranh nhịp bước mê cuồng – máu người, vỏ hộp, nỗi buồn mốc meo…

Trên con đường gian nan ngậm ngãi tìm trầm đôi khi thi sĩ gặp được thơ, trên con đường chông gai ngậm ngãi tìm thơ đôi khi thi sĩ gặp được trầm. Mới hay thơ và trầm không phải là cái quá quí hiếm với những ai dám tận hiến cho cuộc hành trình đi tìm cái Đẹp, cái ngọt ngào vĩnh hằng có tên gọi THI CA.


* Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm

TRẦN NGỌC TUẤN

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : TRÚC THÔNG - ĐỒNG HÀNH VỚI GIÓ






TRÚC THÔNG – ĐỒNG HÀNH VỚI GIÓ

Ngọn gió thi ca thổi qua dòng sông quê đầy đặn, lòng thi sĩ dâng tràn cảm xúc gió ngô lay ở bờ sông – bờ sông vẫn gió người không thấy về … Ngọn gió thi ca thổi qua vườn quê mang theo sứ mạng của tự do và thân thiện con người – phơi xanh giữa trời và lẳng lặng



Ngọn gió thi ca thổi qua làng đêm Kinh Bắc thức đâu từ những triều Lê, triều Lý – vận nước rồng lên / vận nước tối bùn – mẹ vẫn áo tơi cánh đồng đi cấy…Ngọn gió thi ca một lần thổi qua Yên Tử dội nắng dội gió – kéo cả trời xuân / tắm rửa tâm hồn, thi sĩ đi giữa đường tùng chiêm ngưỡng cây xanh nguyên suốt bảy trăm năm – lưu dáng ngước biết bao cao sĩ… Ngọn gió thi ca thổi dọc miền Trung có bao nhiêu mắt sắc – bao nhiêu cười muối mặn , nhói lòng thay – tương tư miền Trung dồn dập sóng – tương tư câu hò hố trôi dài… Ngọn gió thi ca xuôi đêm phương nam phập phồng gió thở . Thi sĩ đồng hành với ngọn gió trìu mến Em ngược dòng kênh Xẻo Rô thăm mẹ - chắc ngày mai ngọn gió gọi em về…Thi sĩ không thể nào quên sáng ấy chùa Miên hiền như giómỏng mảnh em đi – mắt ướt đen/ mũi dọc dừa/ bay bay tóc xõa… Thi sĩ đồng hành với ngọn gió thổi một vòng ưu tư quanh thị xã – chiếc xe lôi chậm một đời người



Ngọn gió thi ca thổi qua miền bằng hữu để bắt gặp tim bạn mình run gió … giữa dòng đổ xiết thời gian …để nhận ra một thi sĩ về quê hương lấy vợ - gió đang thu ru ở đầu cành



Ngọn gió thi ca nâng cánh diều thơ trẻ : anh nâng con lên gió – nó chơi với diều xa – còn anh chơi với cả trời nguy hiểm… Thi sĩ chấp nhận mọi hiểm nguy để cánh diều thơ trẻ được bay trong không gian an toàn, an toàn tuyệt đối…



Thi sĩ hóa thân thành ngọn gió hay ngọn gió là chỗ dựa tâm linh cho tâm hồn thi sĩ. Anh bơi đi trong cõi mông lung – chỉ neo lại / trái tim mình / trong gió và hơn thế : Tôi của gió cánh đồng vô cực – trừu tượng hơn mơ những giấc mơ . Với tốc độ lao rất nóng của cơn lốc thị trường có thể cuốn phăng tất cả ;may còn ngọn gió thi ca giữ chân thi sĩ dừng lại trước dàn kích động – trở về giai điệu gió đồng quê để đi cùng hoang mang trong gió / mùa thu… để hồi hộp / se se / thu chếch rồi…



Nhoai lên,quành xuống – giữa núi xanh – tiếng chim rơi tịch mịch – nỗi người đi muôn trùng … Thi sĩ cầm một ngọn đèn xanh chầm chậm làm cuộc maratông với GIÓ …


*Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Trúc Thông

TRẦN NGỌC TUẤN

Thứ Sáu, 15 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : HOÀNG NHUẬN CẦM - XÚC XẮC MÙA THƠ

NHÀ THƠ HOÀNG NHUẬN CẦM (trái ) & TRẦN NGỌC TUẤN
HÀ NỘI ,THÁNG 8 NĂM 2010




HOÀNG NHUẬN CẦM – XÚC XẮC MÙA THƠ

Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé… xoay chậm dần rồi dừng lại, hiện ra một mùa hoa học trò : mùa hoa mơ rồi đến mùa phượng cháy…Nơi ấy thi sĩ thả hồn vào thời bím tóc trắng ngủ quên, thời cầm dao khắc lăng nhăng trên bàn ghế cũ…Để rồi : Anh nhớ quá ! mà chỉ lo ngoảnh lại – không thấy trên sân trường chiếc lá buổi đầu tiên…



Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé… xoay chậm dần rồi dừng lại, hiện ra buổi tiễn tuổi thơ không một tiếng kèn để vào mặt trận lúc mùa ve đang kêuDưới màu hoa rất đỏ, thi sĩ xếp ba lô lặng lẽ đốt thơ mình. Lặng lẽ đốt thơ mình bởi nhận ra : câu thơ cũ có gì không thực nữa – chớp qua hồn như pháo sáng mà thôi. Ngày xuất ngũ, trong vòng tay bằng hữu, mắt thi sĩ chợt rưng rưng : Ai biết vì sao anh đã khóc – lá rừng sốt rét xuống trang thơ – đâu những căn hầm, đâu nấm mộ - nhắc tên lên đã thấy bơ phờ…



Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé… xoay chậm dần rồi dừng lại, hiện ra Sông Thương tóc dài : Mai đành xa sông Thương thật thương – mắt nhớ một người, nước in một bóng – mây trôi một chiều, chim kêu một giọng – anh một mình, náo động một mình anh…



Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé… xoay chậm dần rồi dừng lại, hiện ra một mùa thu hoa cúc…Mùa thu chợt đến chợt đi… Còn sót lại trên bàn bông cúc tím – bốn cánh tàn, ba cánh sắp sửa rơi… Mùa thu cũng mong manh như hạnh phúc : ôi hạnh phúc cái vòng tròn khổ tủi – đã trôi qua số phận bao người… Mong manh bởi : em thường hát, thường cười khi anh khóc – anh lặng buồn, lặng nhớ lúc em vui…



Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé… xoay chậm dần rồi dừng lại, hiện ra một góc phố buồn, đằm hương hoa sữa, du dương giai điệu Su Man … Thi sĩ đã thực vào đời bằng nước mắt – để con ta mơ mộng ngủ bên đàn – ta đã đi như mèo trên phố vắng – gọi tên con như gọi các thiên thần – có một nốt không bao giờ con biết tới – là nốt buồn, cha đã nuốt thay con…



Viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé… xoay chậm dần rồi dừng lại, hiện ra một căn nhà thật buồn, ở đó thi sĩ đang trầm tư đốt trên đầu điếu thuốc – những tháng ngày buồn nôn. Trong nỗi đau quá sức chịu đựng của trái tim nhạy cảm, thi sĩ chỉ biết : Ta cười như chưa khổ… Ta cười như chưa yêu…Nụ cười mới bi thiết làm sao! Nụ cười của đắng cay khi nhận ra : Người ngồi chưa bao nhiêu – đã hết thời lãng mạn – thơ nằm như trúng đạn – ta ngồi tay xuôi xuôi…



Thi sĩ hóa thân thành viên xúc xắc xoay tròn trong gió xé và hiển lộ sáu mặt đời lắc cắc tiếng thơ anh…




TRẦN NGỌC TUẤN






Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Hoàng Nhuận

Thứ Năm, 14 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : VÂN LONG - CUỘC HÀNH TRÌNH THƠ LẶNG LẼ

NHÀ THƠ VÂN LONG (trái) và TRẦN NGỌC TUẤN






VÂN LONG – CUỘC HÀNH TRÌNH THƠ LẶNG LẼ

Gần nhau non buổi chiều – ngẩn ngơ tròn buổi tối – đường về quên mất lối – rẽ lầm tới nhà em. Rẽ lầm tới nhà em hay rẽ lầm vào lối thơ, để rồi như một định mệnh không thể nào dừng bước được. Thi sĩ lặng lẽ đi, lặng lẽ ưu tư, lặng lẽ rung hết cung bậc buồn vui của một kiếp người…

Thi sĩ đã sống một thời gian như sóng, đã thành một chiều hải cảng khi mùa thu đến như con tàu quen bến – những tán lá dập dềnh như sóng dội ngoài song… Thi sĩ đã hóa thân thành cây ngô đồng bên bờ sông Lấp – đã quá quen tiếng sóng ấp iu bờ… Thi sĩ men theo sông Cấm nghe nặng nề, bí mật cánh buồm trôi ; thi sĩ vượt Bến Bính lòng bâng khuâng sau chuyến đi, ai toàn vẹn trở về? Khi thanh bình trở lại, thành phố đẹp bất ngờ tôi choáng váng – chẳng bao giờ tôi hiểu biển đến nơi. Vậy mà, mùa thu nầy tôi tiễn tôi ư ? – Tôi một nửa sẽ ở đây vĩnh viễn

Thi sĩ tạt qua giây lát xứ Đoài để phiêu bồng cùng mây trắng Ba Vì như cổ tích – xứ Đoài vàng biếc nắng trung du. Thi sĩ ghé thăm Hương Tích để ngẩn ngơ trước một quả sấu rơi vào giữa lặng im – tôi lượm lên cả tiếng cười tinh nghịch… Thi sĩ hành hương về đất cội nguồn để nghe tiếng chày ba đuổi nhịp thậm thình

Thi sĩ trở về với thế giới tuổi thơ bên bờ sông Tô Lịch, xao xuyến trước ngõ Tràng An để nhớ năm mươi năm – cô bạn nhỏ chưa khô giọt lệ - giận nhau vì một quả bàng…Thi sĩ tần ngần trước Ô Quan Chưởng để hóa thân thành cây si lùa xuống rễ rêu phong , để đắm mình trong hương hoa sữa, để bâng khuâng năm cửa ô như năm ngón tay xòe…Giữa không gian một màu xanh bất tuyệt thi sĩ nhận ra Em tinh tế đến từng giọt nhỏ - Em tràn đầy những giấc mơ xanh…Thi sĩ thấm tận hồn giọt em khao khát – Em ở trong anh. Anh vẫn đi tìm

Thi sĩ là loài cá ăn chìm – thơ và đời lặng lẽ…Suốt đời tận hiến cho thơ nhưng thi sĩ không hề hoang tưởng : chẳng sáng láng gì khi mình làm thơ – tôi như cái bóng đi trong sương mờ …và hơn thế nghiền ngẫm cả mùa thu – một câu thơ hư ảo – mười lăm năm sau mới đưa được câu thơ lên trang báo – anh bắt gặp người vê bài thơ anh châm điếu thuốc lào…Thi sĩ hóa thân vào thơ nên đọc câu thơ thấy một đời người … Còn gì đau khổ hơn khi thi sĩ bửa cuộc đời ra bán lẻ trong hoàn cảnh đêm vô tội bị dằn vặt – nắng vô tư bị bóp nhàu… Còn gì buồn hơn con tàu mang nỗi cô đơn trên biển – anh cô đơn trên thép lạnh sàn tàu… Thi sĩ như những ngọn cây – những ngọn cây cao – cứ sục tìm chi khoảng biếc – nõn lá tủa ra quyết liệt… Rồi cũng đến tầm ấy thôi – làm sao có thể thành mây – bay tới những miền chưa biết… Lên đó để mà ngơ ngác – lên đó để mà cô đơn – để mà run rẩy – từng cơn lạnh thấu linh hồn…

Thi sĩ làm cuộc hành trình lặng lẽ về phía chân trời thơ với một xác tín : chân trời là điều có thật – chân trời trên cánh bay…

TRẦN NGỌC TUẤN

Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Vân Long

Thứ Ba, 12 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : XUÂN SÁCH - CÕI NGƯỜI NHƯ HẠT BỤI BAY







Xuân Sách - Cõi người như hạt bụi bay



Trần Ngọc Tuấn

Hạt bụi bay qua hữu hạn cõi người : vừa nghe ngựa hí ngoài song cửa – đã thấy trên đầu tóc trắng phơ . Cứ tưởng trăm năm không đủ để thương yêu , không đủ để rung hết cung bậc buồn vui nỗi lòng quan họ : Người ơi không ở lại – nước mắt đầm như mưa – giã bạn từ bữa ấy – đến nay vẫn đợi chờ … Vậy mà , bao nhiêu kẻ xấu trên đời – để cho người tốt đứng ngồi không yên… Làm sao mà bình yên được khi sự dối lừa bao bọc đến tàn hơi . Làm sao mà bình yên được khi : phải quả đắng nuốt trôi lại ngọt – lừa đảo ơi, mi cũng có tín điều ? Nhưng người ta sống nếu không tin gì nữa – biết sống với ai ,biết sống thế nào ; hạt bụi nương theo con sông vẫn chảy,con đò vẫn qua để về với cõi rỗng không – bỗng dưng lại thấy nằm trong cõi người …

Hạt bụi bay qua vương triều trăm năm tắt lịm , chợt nghe tiếng dế kêu ran vườn thượng uyển , thấp thoáng hàng tượng đá gù lưng cùng mưa gió – quan võ quan văn im lặng cúi đầu … Đâu rồi quyền uy ? Đâu rồi ngai báu ? Hết thảy đã lui vào dĩ vãng – nuối tiếc chi dâu bể cũng qua rồi …

Hạt bụi bay qua biển lặng , hàng dương thôi réo rắt khúc ca chiều … Bóng ai như thi sĩ ngồi lặng im trên mỏm đá , đang nghe nhịp đập trái tim mình . Nhịp tim nhọc nhằn đập vội – gọi về một cõi nhớ thương …

Ghi chú : Những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Xuân Sách
Trần Ngọc Tuấn

Chủ Nhật, 10 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : BÙI GIÁNG - NGẮM TRĂNG SAU ĐỘ MƯA NGUỒN







Bùi Giáng - ngắm trăng sau độ mưa nguồn



Trần Ngọc Tuấn

Cuộc đời thi sĩ là một cuộc điên , chạy vòng xuôi ngược loanh quanh – chân trời ủ dột mà anh điên rồ . Thi sĩ từng phát hiện người đời đôi khi nhìn nhận mình như một gã lẩm cẩm như một cô hàng xóm một hôm – nhìn tôi như thấy một ông khác thường – vừa điên dại vừa thê lương – vừa vui trời đất , vừa buồn nắng mưa …

Trong khoảnh khắc tỉnh táo thi sĩ tự hỏi :Cái điên thành tựu cái gì ? Rồi tự trả lời : Ấy là mộng tưởng nhu mỳ giai nhân .

Nhu mỳ giai nhân là ai mà làm cho thi sĩ phải thốt lên : Tôi về chấm dứt cuộc điên – thấy em tưởng thấy thần tiên đi về .

Nhu mỳ giai nhân có thể là Kim Cương Nương Tử : Trải bao nhiêu trận bất bình – cuồng điên tôi giết tự mình tôi chơi – tỉnh ra vô tận bồi hồi – chào em Nương Tử không lời Kim Cương

Nhu mỳ giai nhân có thể là EM MỌI NHỎ : Viết vào tờ giấy rưng rưng – mắt đầm đìa lệ viết từng bao năm – tay em tôi nắm tôi cầm - em là EM MỌI trăng rằm nhớ em …



Nhu mỳ giai nhân có thể là THÔN NỮ : Em đi thể điệu nhu mỳ – mắt ngơ ngẩn ngó, tai tuỳ nghi nghe – thương em, em có đâu dè – tình yêu ký ức hội hè trăm năm



Nhu mỳ giai nhân có thể là một NÀNG TIÊN : Nàng tiên kia ở nơi đâu – về đây thăm viếng mối sầu lão phu – nàng không hề thốt một câu – đoan trang đằm thắm trước sau buồn buồn – tình yêu không có cõi nguồn – thoảng qua như gió mây ùn như sương …



Trong cơn cuồng si thi sĩ quỳ xuống giơ hai tay bệ vệ – chỉ xin nâng một giọt lệ êm đềm … và không rõ sự đời có nên nói – rằng yêu nhau là vĩnh viễn xa nhauYêu nhau ? ngàn vạn não nường – biển dâu lớp lớp mộng trường so le …Bởi mộng trường so le nên thi sĩ hoá điên như từng đã điên rồi

Thi sĩ hơn một lần tự bạch : Sơ sinh phát tiết muộn lời – tâm hồn như lộc trang đời như điên – muộn lời chậm tiếng lầu tiên – liền tâu Thần Nữ mối phiền lão phuMối phiền lão phu là mối phiền truyền kiếp của giống nòi thi sĩ . Cho dù có thong dong đùa với tuyết, rỡn với vân – một mình nhớ mãi gái trần gian xa – sương buổi sớm nắng chiều tà – trăm năm hồng lệ có là bao nhiêu ; thi sĩ vẫn phải trăm năm tắm gội dưới trời – ngày thì tắm nắng tối rồi tắm trăng – nhớ em tắm với chị Hằng – tận cùng tắm với ngọn đèn cô đơn …

Rốt ráo cuộc đời , cuộc thơ , cuộc điên … chỉ còn ngọn đèn cô đơn tri âm cùng thi sĩ và xa xa trên bầu trời xanh kia , giữa muôn ngàn tinh tú , một vầng trăng lẻ loi đang âm thầm toả sáng …




Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Bùi Giáng
Trần Ngọc Tuấn

TRẦN NGỌC TUẤN : PHÙNG CUNG - THAO THỨC XEM ĐÊM






PHÙNG CUNG - THAO THỨC XEM ĐÊM






Thi sĩ như con đom đóm soi đèn giữa khuya khoắt bờ ao để tìm dấu hoa văn. Dấu hoa văn ẩn hiện trên đỉnh tháp cờ bay – Rùa thiêng ngợp thắm – nước hồ Gươm,một trời-cốm-Đông- ĐôDấu hoa văn ẩn hiện trên giải yếm bắc cầu một thuở –gió bạc cánh – chưa hết vòng kim cổ –làng cách làng,từng quãng phong dao…



Thi sĩ tồn tại trong một gia cảnh:nắng lên mấp mí sân rêu… chó vẽ bóng gầy sân bếp… Ở đó trong một đêm xuân – đom đóm bay ngang – ngọn đèn gió-bẻ –hai thế hệ –khoanh tròn nong ổ rạ –gà khai khẩu gối mùa ấm lạnh – lác đác bên trời – ngọc úa sao khuya… Ở đó có người vợ vất vả –tối ngày tất tả –lưng áo ngoang vôi trắng xóa – cái trắng nầy – vắt tận trong xương… Ở đó thi sĩ hiện ra:nửa đời – nước thải – hưu non – vã mồ-hôi-son – tảo tần chiều sớm,quốc lũi lưng vơi – ngấm câu thành ngữ –mắt trước mắt sau – kinh hoàng di lụy – tóc bạc vào mùa – răng hơi bị đuối – trệu trạo trái sung – ruột tím cơ hàn… Thi sĩ trải qua mùa nước mắt,trải qua cơn bão xuân… Đôi khi thi sĩ cũng vui nhưng đó là vui cái vui-thừa thiên hạ… Hồn thi sĩ đôi khi được thắp nắng nhưng đó là nắng thừa,nắng hàn vi… Đôi khi thi sĩ thả hồn vào giấc mơ nhưng đó là giấc mơ kẻ khó



Những khó khăn thường trực,túng bấn cơ hàn,đố kỵ tỵ hiềm,oan khiên ngờ vực… không làm nản chí,chùn chân bởi thi sĩ tự nuôi sống hồn thơ bằng nguồn sửa ngọt – năm tháng đẹp dòng – ru trong nắng-Âu-Cơ;bởi thi sĩ biết tắm gội tâm hồn nơi sông quê chảy qua làng có miệng chim bốn mùa – nức mùi quả chín – giọng hót thơm – thơm tận chỗ chưa thơm – ngô lúa quanh làng – một màu xanh-cánh-chấu;bởi thi sĩ biết nương thân vào mẹ:mồ hôi mẹ –tháng ngày đăm đăm nhỏ giọt – con níu giọt mồ hôi – đứng dậy làm người…



Thi sĩ lặng lẽ sống,lặng lẽ sáng tạo trong cõi chữ. Thi sĩ ước ao:khi tôi chết – tôi thèm cái lặng lẽ –ngoài vòng hương nhạc để thanh thản gửi thân xác nơi thổ phần bò xéo cuối thôn và nếu được tái sinh thi sĩ chẳng ước ao gì khác – chỉ mong được như kiếp trước – xó bếp đói no – bờ ao tắm mát phận cánh cò – mưa nắng-phong dao. Giữa cuộc đời đầy ánh sáng nhưng cũng không ít bóng tối nầy,nhận chân được sự lưu đày trong cõi tung hô để có một thái độ sống dứt khoát:quất mãi nước sôi – trà đau nát bả –không đổi giọng Tân Cương,đó là tâm thế của một thi sĩ đích thực.



Xem Đêm để mà trằn trọc,để mà thao thức… về thân phận của một thi sĩ hiện hữu trên thế gian nầy…






*Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Phùng Cung









TRẦN NGỌC TUẤN

Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : PHÙNG QUÁN - NGƯỜI UỐNG RƯỢU CẤT TỪ LÁ KHỔ SÂM






PHÙNG QUÁN - NGƯỜI UỐNG RƯỢU CẤT TỪ LÁ KHỔ SÂM






Thi sĩ lên rừng,hái lá khổ sâm,tự mình cất ly rượu sống… sau bao năm sống bầm dập trong sự nghi ngờ là lính quay giáo(*) . Không thể là lính quay giáo được với một thi sĩ đã từng tuyên bố:Như công nhân – Tôi muốn đúc thơ thành đạn – Bắn vào tim những kẻ làm càn – Những con người tiêu máu của dân – Như tiêu giấy bạc giả! Không thể là lính quay giáo được với một thi sĩ có trái tim chân thành tuyệt đối:Yêu ai cứ bảo là yêu – Ghét ai cứ bảo là ghét – Dù ai ngon ngọt nuông chiều – Cũng không nói yêu thành ghét – Dù ai cầm dao doạ giết – Cũng không nói ghét thành yêu…



Thi sĩ vừa ngâm ngợi câu thơ – vừa cạn chén rượu đời – cất bằng lá khổ sâm…Ôi rượu khổ sâm đắng lắm – đắng tận cùng nỗi đắng thế gian… Câu thơ vọng từ đêm Nghi Tàm đọc Đổ Phủ cho vợ nghe:Thơ ai như thơ ông – Lặng im mà gầm thét – Trang trang đều xé lòng – Câu câu đều tẩm huyết…Mỗi chữ đều như róc – Từ thịt xương cuộc đời – Từ bi thương phẫn uất… Câu thơ vọng từ đêm say cùng Lý Bạch:Tăm tăm tình bạn – Chếnh choáng tình đời – Líu lưỡi tình người – Nôn nao thân phận! … Câu thơ bị biếm – Mềm môi ngâm tràn… Ta cười rượu xoàng – Uống hoài vẫn tỉnh! Câu thơ vọng từ ngôi nhà có tiếng sóng của con sông Đuống:Tôi tin núi tàn – Tôi tin sông lấp – Nhưng tôi không thể nào tin – Một nhà thơ như anh – Lại ngã lòng suy sụp



Giã từ rừng thiêng nước độc,thi sĩ về với sông Hương thơ mộng,đắm đuối với Trăng Hoàng Cung,ngất ngưỡng sống,ngất ngưỡng thơ,ngất ngưỡng say… và ngất ngưỡng gặp Nàng… Trong đêm hoàng cung,thi sĩ ngất ngưỡng làm vua bên nàng là hoàng hậu … Nhưng còn có nỗi thống khổ nào hơn khi thi sĩ chợt hiểu vào hoàng cung cũng là chuyện quá dễ dàng… Thi sĩ khóc niềm tin yêu nát tan – khóc ngai vàng mộng tưởng – khóc Trăng Hoàng Cung bị lấm bẩn,khóc không biết lấy gì để gột sạch Trăng…



Thi sĩ hồn nhiên nghĩ rằng thơ có thể làm tiêu tan mọi gian trá,bất lương;lá khổ sâm có thể tẩy mọi chất độc trong cơ thể và Trăng Hoàng Cung không thể nào vấy bẩn… Vậy mà… Trong một ngày tết không vào nhà tôi – tết đi qua trước ngõ thi sĩ tự nhận:bạc đầu vẫn trẻ con – dại khờ cho đến chết – giữa nghiệt ngã trần gian – trái tim thơ thấm mệt… Thấm mệt nhưng không thể chừng mực thơ… chừng mực yêu …chừng mực khổ đau …Giữa nghiệt ngã trần gian thi sĩ thốt lên:Thượng đế ơi !Tôi đã làm gì ?Mà ly rượu đời Người ban cho tôi – Đắng thế?



Ghi chú:những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Phùng Quán



(*) chữ trong thơ Tào Mạt gửi cho Phùng Quán






TRẦN NGỌC TUẤN

TRẦN NGỌC TUẤN : HỮU LOAN - HIỆN HỮU MỘT MÀU HOA SIM TÍM







Hữu Loan - Hiện hữu một màu hoa sim tím



Trần Ngọc Tuấn

Giữa tinh khiết hoa sen, vàng thu hoa cúc, trắng trinh hoa huệ, sương khói hoa lau…trong vườn thơ Việt thi sĩ hiện hữu như một màu tím hoa sim.

Màu tím là hiện thân của tình yêu chung thủy : ngày xưa nàng yêu hoa sim tím – áo nàng màu tím hoa sim…Khi chiếc bình hoa ngày cưới,thành bình hương, tàn lạnh vây quanh… thì màu tím trở thành màu ly biệt : Em ơi giây phút cuối – không được nghe nhau nói – không được trông nhau một lần… Thi sĩ vọng về đâu trong chiều hoang tím chỉ có chiều hoang biết ?

Dẫu ẩn cư nơi thôn dã nhưng chỉ cần một màu tím hoa sim cũng đủ làm sáng danh thi sĩ… Trong cuộc hành binh vào thăm thẳm chiều hoang màu tím phía bên kia đèo Cả, hành trang thi sĩ mang theo đâu chỉ có một màu tím hoa sim, tím chiều hoang biền biệt

(*) Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Hữu Loan


Trần Ngọc Tuấn

Thứ Tư, 6 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : LÊ ĐẠT - KỲ NGỘ TRONG CÕI CHỮ








LÊ ĐẠT - KỲ NGỘ TRONG CÕI CHỮ








Thi sĩ lặng lẽ độc hành trong cõi chữ.Những câu thơ như những đoá hoa kỳ ngộ,nên đâu đó có lời ong tiếng ve cũng là lẽ thường tình.

Thi sĩ tự nhận ba mươi tuổi – ba mươi con bò – ngu không số dư;đã mùa khem còn thèm thòm trái cấm thêm nỗi vui mồm lắp lẫn nhiều kinh kệ không quen,rồi tự kết luận:Một góc tuổi mải tàu thơ dại mãi – tìm nhà quên mất số lớn khôn. Dưới mắt người bình thường thi sĩ quả là người bất thường nếu không muốn nói là người kỳ ngộ. Người kỳ ngộ làm ra những câu thơ kỳ ngộ âu cũng hợp với lẽ đời.

Thi sĩ dấn thân vào cõi tình cũng đầy kỳ ngộ:đừng mắng anh ngu lâu bạc đầu vụng dại – dầu được yêu lòng quá tải vẫn thất tình. Thi sĩ ngoan cố thất tình xuân vẫn mãi – khờ biết bao giờ hết dại yêu. Khi thi sĩ cất lên tiếng nói:Anh tìm về địa chỉ tuổi thơ – Nhà số lẻ,phố trò chơi bỏ dở –Mộng anh hường- tim môi em bói đỏ –Giàn trầu già khua những át cơ rơi… Hay là:Chia xa rồi anh mới thấy em – Như một thời thơ thiếu nhỏ –Em về trắng đầy cong khung nhớ –Mưa mấy mùa – mây mấy độ thu – Vườn thức một mùi hoa đi vắng – Em vẫn đây mà em ở đâu –Chiều Âu Lâu bóng chữ động chân cầu,thì lời của trái tim thăng hoa vượt tầm kỳ ngộ.

Có thể mọi câu thơ hay đều kỳ ngộ,nhưng sự kỳ ngộ đó phải rớm máu như cột đèn rớm điện trong một chiều Bích Câu:Rằng tiên xuống trần – Rằng ta gặp nhau
Nhưng mà thôi,hãy nghe lời tâm sự cuối cùng của thi sĩ:Có thể sau lòng tiễn nhau biệt cửa – Một huệ tình ơn chữ ngộ thừa yêu…




*Ghi chú:những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Lê Đạt








TRẦN NGỌC TUẤN

Thứ Ba, 5 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : TRẦN DẦN - ĐI VỀ MẤY NẺO CHÂN MÂY






TRẦN DẦN - ĐI VỀ MẤY NẺO CHÂN MÂY






Thi sĩ từng tuyên bố:Hãy sống như những con tàu phải lòng muôn hải lý – mỗi ngày bỏ sau lưng nghìn-hải-cảng-mưa buồn;vậy mà phải chua xót đau đớn thốt lên:Tôi khóc những người bay không có chân trời – lại khóc những chân trời không có người bay… Và hơn thế:sao cho tôi nhiều xương sống thế? – trước quyền không biết lom khom. Thế mới biết sống làm người mới khó làm sao! Lại càng khó hơn khi sống như một THI SĨ.



Với thi sĩ,sống đồng nghĩa với thơ:thơ với tôi như tôn giáo không nhà thờ,không giáo chủ,chẳng tăng sư – Tôi vẫn chốt ở đền Bay-On chữ –Thơ là mạng sống,là lý lịch thật đời tôi. Thi sĩ có tâm nguyện:Người thơ – không rắc nước hoa – lên những bông hoa mình trồng. Tín điều ấy ám ảnh thường trực suốt cuộc hành trình thơ đầy khổ nạn:tôi như có lời hứa chưa xong – có lời nguyền chưa trọn – có câu thề còn trăn trở nơi tim – thơ là trò rồ của những kẻ như tôi…



Điều gì khiến cho thi sĩ vượt qua cảnh ngộ:họ cứ vu oan mặt trời ngủ? Phải chăng thi sĩ đã nhận chân được:đố ai chọc mắt các vì sao? Tự thẳm sâu lòng mình thi sĩ nhận ra:tôi có nghèo đâu,trăng sao lủng liểng – mây phơi dằng dặc khắp chân trời – hương hoả của tôi kho nào chứa xuểê hề vũ trụ sao bay… và đã tự biết:ôi chiếc lá vàng trong bát ngát càn khôn



Thi sĩ cô độc sống,kiêu hãnh sống trong một vùng thơ tên gọi không lời. Thi sĩ lặng lẽ làm một cuộc lữ trình:đường đi tít tắp chân trời,đường về mấy nẻo chân mây…






*Ghi chú:những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Trần Dần









TRẦN NGỌC TUẤN

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : HOÀNG CẦM - DONG THUYỀN TÌNH TRÊN DÒNG MÊ LY







Hoàng Cầm – Dong Thuyền Tình Trên Dòng Mê Ly



Trần Ngọc Tuấn

Trên dòng mê ly, thi sĩ dong chiếc thuyền tình dáng lá Diêu bông xuôi miền Kinh Bắc. Thao thức trắng đêm : Cúi lạy mẹ, con trở về Kinh Bắc – chiều xưa giẻ quạt voi lồng – thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc – chuồn chuồn khiêng nắng sang sông (đêm Thổ) . Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc – con không cười – con thoảng nhớ thoảng quên (đêm Kim) . Về Kinh Bắc phải đâu con nhắm mắt – gài mảnh gương giàn thiên lý đợi tua rua (đêm Thủy). Về Kinh Bắc tìm chơi đàn kiến lửa – ngón tay di sợi chỉ nâu (đêm Hỏa) . Về Kinh Bắc phải đâu con hé miệng – khế chua vôi bột lòng tay ( đêm Mộc).

Trên dòng mê ly, thi sĩ dong chiếc thuyền tình dáng lá Diêu bông xuôi miền Kinh Bắc. Trắng đêm Quan họ : Mẹ xưa dối bà, con nay dối mẹ - Tình không dối được nhịp cầu…Còn gì đẹp hơn : Mở hội hôm nay – đồi rộng cỏ thơm – sánh giọng so lời – mắt giếng sâu nhìn nhau đằng đẵng – tiếng hát bao ngày nín trong miệng đắng – đến nay có thỏa mộng ngày xưa? Sau tiếng hát giã bạn là đời thực với bao trắc ẩn : Đến đâu là cõi không đày ải – đôi mảnh hồn xanh lạc lối về? Thi sĩ phải đau đớn thốt lên : Thôi đợi sang chiều sương rủ khói – lơ thơ che mặt thẹn sông Cầu – một lời quan họ bay lên dốc – sao cứ dìm nhau xuống vực đau…

Trên dòng mê ly, thi sĩ đã tìm thấy Lá, chiếc lá Diêu bông định mệnh. Chiếc Lá không làm nên hạnh phúc như lời nguyền, bởi Chị lắc đầu – trông nắng vãn bên sôngChị cười, xe chỉ ấm trôn kim… Xòe tay phủ mặt – Chị không nhìn... Thi sĩ đi đầu non cuối bể với tâm trạng nhớ con bướm trắng dập vùi mà thương – chuyện đời ư ? vạn nẻo đường – cứ lang thang mãi biết phương nào về… Thi sĩ mải đi : Trời Vu Lan vắng trăng sao – ru em lần nữa ngọt ngào hương mê… Thi sĩ đi đến tận cùng dòng mê ly bởi đi cũng là sự giải thoát kia mà…

Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Hoàng Cầm
Trần Ngọc Tuấn

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : QUANG DŨNG - MÂY ĐẦU Ô BAY...AI CÓ HAY...






QUANG DŨNG – MÂY ĐẦU Ô BAY…AI CÓ HAY …

Mây đầu ô bay qua trời Hán quốc để nhớ một Chiêu Quân, tì bà lanh lảnh buốt cung thương – tang tình năm ngón sầu dâng lệ…Trong một đêm cố quận, mây đầu ô bay qua ngõ trúc quanh quanh sâu bóng lá – trăng vàng rơi rắc nẻo nào xưa – ngõ cũ không mong người trở lại – mà mùi hoa mộc vẫn thơm đưa…

Mây đầu ô đồng hành cùng đoàn binh Vệ quốc, đi qua những làng : dân đang gồng gánh cả cơ nghiệp – thành lũy ngăn đường chẹn chiến xa…Còn gì tang thương hơn khi máu đông in dấu giầy đinh giặc – nền tro gạch sém ngách buồng ai – chiếc tả đầu giường đang cháy dở… Với ngút ngàn căm hận, mây đầu ô tạm biệt miền xuôi lên đường cùng Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc – quân xanh màu lá dữ oai hùm – mắt trừng gửi mộng qua biên giới – đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm…Ngoài kia, sông Mã gầm lên khúc độc hành

Mây đầu ô bay qua sông Đáy lạnh đôi bờ - thoáng hiện em về trong đáy cốc – nói cười như chuyện một đêm mơMây đầu ô bay qua sông Đáy chậm nguồn quanh Phủ Quốc – sáo diều khuya khoắt thổi đêm trăng… để nhớ đôi mắt người Sơn Tây – u uẩn chiều lưu lạc – buồn viễn xứ khôn khuây…

Mây đầu ô dừng ở quán bên đường, tường xiêu quán lệch gặp em gái tản cư lòng rưng rưng đồng cảm : Hồn lính vương qua vài sợi tóc – tôi thương mà em đâu có hay…Tạm biệt quán tản cư, ở đó có một người kêu cà phê – một anh gọi thuốc lá – một người nhìn sau trước …Chị ơi ! ly rượu nhỏ ! – rượu nhỏ một ly thôi – một ly cho đỏ mặt – cho lên hương cuộc đờiMây đầu ô cùng với lính râu ria lên đường với quyết tâm dâng hiến chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh và niềm tin tất thắng : bao giờ tôi gặp em lần nữa – chắc đã thanh bình rộn tiếng ca…

Giã từ sắc mùa chinh chiến cũ, mây đầu ô lang thang qua thăm thẳm núi rừng xanh Trường Sơn cây cổ đại nghìn nămMây đầu ô bay qua hoa lau trắng bạc trời Yên Thế… Đôi khi mây đầu ô như cánh chim mỏi cánh – tạt vào rừng không quen…đêm nay đêm Bạch Hạc – nghe sông Lô cuộn nước –dềnh lên suốt đêm dài…

Trong một chiều xanh bên ngõ trúc, trước khi tan vào vô tận cao xanh, mây đầu ô nghẹn ngào đôi mắt rưng rưng lệ - Anh nhỉ ! Muôn đời ơn tự do…Vâng ! muôn đời ơn TỰ DO…


TRẦN NGỌC TUẤN

Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Quang Dũng

Thứ Bảy, 2 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : NGUYỄN ĐÌNH THI - NGHE TIẾNG SÓNG REO









NGUYỄN ĐÌNH THI – NGHE TIẾNG SÓNG REO


Thi sĩ thanh thản mỉm cười một mình trước bờ sông lau sậy vắng . Sẵn sàng đón nhận tiếng đập cửa thình lình gọi để gửi lại đây chìa khóa – tất cả cửa nhà tôi đó – ngổn ngang qua tạm cuộc đời.

Thi sĩ ra đi để lại sau lưng tiếng sóng reo từ bờ suối long lanh ngọc đá, từ suối nhỏ róc rách trong mây. Để lại sau lưng tiếng sóng reo từ dòng sông xanh in bóng núi cao, từ nước mát dòng sông Lô tuổi trẻ. Để lại sau lưng tháng ngày hạnh phúc : Anh dắt tay em chạy giữa mưa…như hai con chim trên mặt biển – bay giữa mênh mông sóng nước mờ. Để lại sau lưng tháng ngày biển động, thơ như chiếc bơi chèo cũ từ lâu bỏ dưới đáy thuyền với bàn tay bật máu thi sĩ chèo không ngừng trên sóng dữ bởi tình yêu dắt đời người trong sóng gió – đau thương lặng gieo hạt giống nhân từ và hơn thế nữa nước mắt người mẹ - làm đứng dậy người con – giọt máu người ngã xuống – thành ngôi sao dẫn đường, và im lặng cũng thành tiếng gọi.

Thi sĩ ra đi để lại sau lưng những điều không dám nói… mắt thi sĩ hoa lên trước hoa chua me đất trong cỏ. Để lại sau lưng, chiều nhập nhoạng dơi bay với lời phóng đi như mũi dao găm tẩm độc – hòn đá từ trong bụi rậm ném vào gáy người kia. Để lại sau lưng, các thứ quạ bay đến làm ô uế sen biếc. Để lại sau lưng, chợ đời nhiều trò chơi mà ít niềm vui. Để lại sau lưng, lớp lớp mây đen đùn lên đe dọa – những cơn lốc cuốn bụi rác bay mù. Để lại sau lưng, chén rượu bên đèn nước mắt đầy – Em cười – sao anh gục buồn thếĐể lại sau lưng, một thời rực rỡ những cánh buồm lộng gió – con thuyền tôi rẽ sóng chồm bay. Để lại sau lưng, một thời chim phượng bay lên mãi, đôi cánh vỗ say sưa, biển mây bạc chuyển động muôn hình kỳ ảo, trên cao xanh, một vầng chói lòa…

Thi sĩ quên những chông gai, quên tất cả - để lại sau lưng mọi bến bờ lặng thầm bay vào vô tận sóng reo…


TRẦN NGỌC TUẤN


Ghi chú: những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Nguyễn Đình Thi

Thứ Sáu, 1 tháng 7, 2011

TRẦN NGỌC TUẤN : ĐOÀN VĂN CỪ - TRÊN ĐƯỜNG VỀ QUÊ MẸ






ĐOÀN VĂN CỪ - TRÊN ĐƯỜNG VỀ QUÊ MẸ


Thật diễm phúc cho những ai được một lần trong đời cùng Mẹ về thăm quê ngoại của hai thân để nhận họ : thúng cắp bên hông nón đội đầu – khuyên vàng, yếm thắm, áo the nâu – trông u chẳng khác thời con gái – mắt sáng, môi hồng, má đỏ au…

Quê Mẹ hiện lên trong nắng xuân : đàn chim sẻ nép mình qua kẽ sậy – tia nắng hồng đốt cháy hạt sương trong – con trâu đen chúi mũi đứng bên đồng – cứ liếm mãi nắng vàng trên cỏ biếc ; vẻ đẹp càng huyền ảo khi : chú bò nằm ngốn cỏ ven sông – như đương nhai một ý nghĩ lạ lùng…

Quê Mẹ hiện ra trong bức tranh chợ Tết đầy màu sắc tươi nguyên nhưng không kém phần kỳ ảo, có lẽ do thiên nhiên còn hoang sơ ảo diệu và lòng người còn chân chất hồn nhiên : dãy mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi – sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh – trên con đường viền trắng mép đồi xanh – người các ấp tưng bừng ra chợ TếtChợ Tết thật nhộn nhịp với lũ trẻ con mải ngắm bức tranh gà …cạnh anh chàng bán pháo dưới cây đaChợ Tết thật sinh động với cụ đồ nho dừng lại vuốt râu cằm – miệng nhẩm đọc vài hàng câu đối đỏ - bà cụ lão bán hàng bên miếu cổ - nước thời gian gội tóc trắng phau phau…

Thời gian làm vật đổi sao dời, cảnh giới không còn như ngày xưa nhưng Quê Mẹ mãi mãi là miền tâm linh để những đứa con chân quê hành hương chiêm bái. Mỗi lần hành hương là một lần tâm hồn được thanh lọc sau mịt mù ô trọc trần gian.


TRẦN NGỌC TUẤN


Ghi chú : những chữ in nghiêng được trích từ thơ của nhà thơ Đoàn Văn Cừ